Ngày 21, tháng Giêng, năm Bảo-Đại thứ 18
(Le 25 Février 1943)
Phụng Châu Phê
"Chuan Y"
B. D. Khâm thử
|
KÍNH TÂU:
|
Ngày 1er Septembre 1942, chúng tôi đã có dâng lên HOÀNG-Đế Ngự Lãm quyền “CONSTITUTION DE LA FAMILLE IMPÉRIALE D'ANNAM" của chúng tôi soạn và đã được HOÀNG-ĐẾ Chuẩn cho ban bố. Nhưng chúng tôi lại được HOÀNG-ĐẾ Diện Sắc rằng nên dịch quyển sách ấy ra Quốc Ngữ cho tiện phổ thông.
Nay chúng tôi tuân soạn quyền “HOÀNG TỘC LƯỢC BIỂN” này, nội dung cũng giống như quyền "CONSTITUTION DE LA FAMILLE IMPÉRIALE D'ANNAM” mục đích để cho trong Hoàng Tộc ai xem cũng có thể hiểu ngay được. Chúng tôi lại nhân dịp này xin thêm vào cách đặt tên của Hệ Nhứt Chánh và thể thứ tập tước đề được đầy đủ hơn.
Vậy kính dâng lên HOÀNG ĐẾ Ngự Lãm đề có được phép ban bố cho trong Hoàng Tộc xem.
Nay kính tâu, Kiêm Nhiếp Tôn Nhơn Phủ Đại Thần: Thần TÔN-THẤT CỒN,
|
HOÀNG TỘC LƯỢC BIÊN
NGUYÊN QUÁN
Bồn Triều quán ở làng Gia-Miêu Ngoại-Trang, tổng Thượng Bạn, huyện Tổng-Sơn, phủ Hà-Trung, tỉnh Thanh- Hóa. Đến Triều vua Gia-Long (1803), chữ Gia-Miêu Ngoại-Trang đổi thành Quí-Hương, và Tống-Sơn đổi thành Quí- Huyện.
Ngày trước, Triều Nguyễn chúng ta nguyên là họ NGUYỄN VĂN. Xem như ngài Trừng Quốc Công, thân sinh ra đức Triệu-Tổ Tỉnh Hoàng-Đế (Nguyễn-Kim), húy là Nguyễn-văn-Lưu thì đủ rõ.
Đến triều vua Minh-Mạng (1823) lại phân biệt ra Tôn- Thất NGUYỄN-PHƯỚC và Công Tánh NGUYỄN HỰU. Tôn-Thất Nguyễn-Phước là những người đã đi theo đức Nguyễn-Hoàng trong lúc ngài vào trấn thủ ở phương Nam. Còn những kẻ ở lại ngoài Bắc đều lấy họ Công-Tánh Nguyễn-Hựu. Hiện bây giờ người ta chỉ để hoặc Tôn Thất hoặc Nguyễn Hựu mà thôi. Ví dụ: Tôn thất-Mỗ, Nguyễn-hữu-mỗ 尊 室 某.
Cách lựa tên của các vị Chúa và các vị Vua
Tên các vị vua Tiền Triều đều dùng bộ Thủy (水), từ đời đức Thế-Tôn-Hiếu-Võ Hoàng-Đế dùng cả bộ Nhật (日) và bộ thủy (水), và triều Gia-Long trở về sau mới chuyên dùng bộ Nhật (日).
Năm 1823, vua Minh-Mạng có lựa sẵn hai mươi chữ (toàn bộ Nhật) để đặt tên cho các vị vua kế thống sau này,
Ngài lại làm một bài thơ “Ngự Chế Mạng Danh Thi” gồm có 20 bộ, các triều vua sau cứ noi theo thế thứ mà đặt tên các Hoàng-Tử:
Ngự Chế Mạng Danh Thi
MIÊN
|
NHƠN
|
KỲ
|
SƠN
|
NGỌC
|
宀
|
亻
|
示
|
山
|
玉
|
PHỤ
|
NHƠN
|
NGÔN
|
TÀI
|
HÒA
|
阜
|
亻
|
言
|
才
|
禾
|
BỐI
|
LỰC
|
TÀI
|
NGÔN
|
TÂM
|
貝
|
力
|
才
|
言
|
心
|
NGỌC
|
THẠCH
|
HỎA
|
HÒA
|
TIỂU
|
玉
|
石
|
火
|
禾
|
小
|
Tên các vị Hoàng Tử con vua Minh-Mạng đều dùng bộ Miên (宀), còn vua Thiệu-Trị bộ Nhơn (亻), đến đức Đông Cung Hoàng Thái Tử Bảo-Long là bộ Phụ (阜) bộ thứ sáu của bài ấy.
Cách đặt tên và chữ lót trong các Hệ Chánh
Các nhánh của các Hoàng Tử anh em cùng đức Minh- Mạng đều theo mười bài PHIÊN HỆ THI mà đặt chữ lót và đặt tên theo lối “Ngũ-Hành Tương-Sanh” (THỔ, KIM, THỦY, MỘC, HỎA). Bắt đầu từ bộ Thổ đi lần xuống đến bộ Hỏa, lại trở lên bộ Thổ.
Đức Gia-Long sanh hạ được 13 vị Hoàng-Tử, trừ ba vị táo thương, còn mười vị, mỗi vị đều có một bài thơ riêng gọi là PHIÊN-HỆ-THI.
MƯỜI BÀI PHIÊN - HỆ - THI:
I. Ngài Tăng-Duệ Hoàng Thái Tử (Hoàng trưởng-tử của Đức Gia-Long)
MỸ
|
DUỆ
|
ANH
|
CƯỜNG
|
TRÁNG
|
美
|
麗
|
英
|
彊
|
壯
|
LIÊN
|
HUY
|
PHÁT
|
BỘI
|
HƯƠNG
|
聯
|
輝
|
發
|
佩
|
香
|
LỊNH
|
NGHI
|
HÀM
|
TỐN
|
THUẬN
|
令
|
儀
|
崇
|
巽
|
順
|
VỶ
|
VỌNG
|
BIỂU
|
KHÔN
|
QUANG
|
偉
|
望
|
表
|
謙
|
光
|
II.- Ngài Kiến-An-Vương (Hoàng đệ-ngũ tử của Đức Gia-Long)
LƯƠNG
|
KIẾN
|
NINH
|
HÒA
|
THUẬT
|
良
|
敬
|
安
|
仁
|
術
|
DU
|
HÀNH
|
SUẤT
|
NGHĨA
|
PHƯƠNG
|
攸
|
行
|
率
|
義
|
方
|
DƯỠNG
|
DI
|
TƯƠNG
|
THỨC
|
HẢO
|
融
|
怡
|
相
|
式
|
好
|
CAO
|
TÚC
|
THỂ
|
VI
|
TƯỜNG
|
高
|
宿
|
彩
|
為
|
章
|
III.— Ngài Định Viễn Quận Vương (Hoàng đệ lục tử của Đức Gia-Long
TỊNH
|
HOÀI
|
CHIÊM
|
VIỄN
|
ÁI
|
靖
|
懷
|
瞻
|
遠
|
愛
|
CANH
|
NGƯỠNG
|
MẬU
|
THANH
|
KHA
|
景
|
仰
|
茂
|
聲
|
華
|
NGHIỄM
|
KHÁC
|
DO
|
TRUNG
|
ĐẠT
|
儼
|
恪
|
由
|
衷
|
達
|
LIÊN
|
TRUNG
|
TẬP
|
CÁT
|
ĐA
|
連
|
忠
|
集
|
吉
|
多
|
IV.− Ngài Diên Khánh Vương (Hoàng đệ thất tử của Đức Gia-Long)
DIÊN
|
HỘI
|
PHONG
|
HANH
|
HIỆP
|
延
|
會
|
豐
|
亨
|
合
|
TRÙNG
|
PHÙNG
|
TUẤN
|
LÃNG
|
NGHI
|
元
|
逢
|
泰
|
朗
|
宜
|
HẬU
|
LƯU
|
THÀNH
|
TÚ
|
DIỆU
|
厚
|
留
|
成
|
秀
|
妙
|
DIỄN
|
KHÁNH
|
THÍCH
|
PHƯƠNG
|
HUY
|
衍
|
慶
|
適
|
芳
|
徽
|
V. – Ngài Điện Bàn Công (Hoàng đệ bảo tử của Đức Gia-Long)
TÍN
|
ĐIỆN
|
TƯ
|
DUY
|
CHÁNH
|
信
|
奠
|
思
|
維
|
正
|
THÀNH
|
TỒN
|
LỢI
|
THỎA
|
TRINH
|
誠
|
存
|
利
|
建
|
貞
|
TÚC
|
CUNG
|
THỪA
|
HỮU
|
NGHỊ
|
肅
|
恭
|
全
|
友
|
議
|
VINH
|
HIỂN
|
TẬP
|
KHANH
|
DANH
|
榮
|
顯
|
襲
|
卿
|
名
|
VI. Ngài Thiệu Hóa Quận Vương (Hoàng đệ cửu tử của Đức Gia-Long)
THIỆN
|
THIỆU
|
KỲ
|
TUẦN
|
LÝ
|
善
|
紹
|
純
|
循
|
理
|
VĂN
|
TRI
|
TẠI
|
MẪN
|
DU
|
聞
|
知
|
在
|
敏
|
求
|
NGƯNG
|
LÂN
|
TÀI
|
CHÍ
|
LẠC
|
凝
|
麟
|
才
|
至
|
樂
|
ĐỊCH
|
ĐẠO
|
DOẢN
|
PHU
|
HƯU
|
迪
|
道
|
允
|
孚
|
休
|
VII. Ngài Quảng Oai Công (Hoàng đệ thập tử của Đức Gia-Long)
PHỤNG
|
PHỦ
|
TRƯNG
|
KHẢI
|
QUẢNG
|
鳳
|
符
|
徵
|
啟
|
廣
|
KIM
|
NGỌC
|
TRÁC
|
TIÊU
|
KỲ
|
金
|
玉
|
卓
|
標
|
奇
|
ĐIỂN
|
HỌC
|
KỲ
|
GIA
|
CHÍ
|
典
|
學
|
期
|
加
|
志
|
ĐÔN
|
DI
|
KHẮC
|
TỰ
|
TRÌ
|
教
|
彝
|
克
|
自
|
持
|
VIII. Ngài Thường Tín Quận Vương (Hoàng thập nhứt tử của Đức Gia-Long)
THƯỜNG
|
CÁT
|
TUÂN
|
GIA
|
HUẤN
|
常
|
佑
|
遵
|
家
|
訓
|
LÂM
|
TRANG
|
TÚY
|
THẠNH
|
CUNG
|
臨
|
莊
|
粹
|
盛
|
恭
|
THẬN
|
TU
|
DI
|
TẤN
|
ĐỨC
|
慎
|
修
|
彌
|
進
|
德
|
THỌ
|
ÍCH
|
MẬU
|
TÂN
|
CÔNG
|
受
|
益
|
懋
|
新
|
功
|
IX. Ngài An Khánh Vương (Hoàng thập nhị tử của Đức Gia-Long)
KHÂM
|
TÙNG
|
XƯNG
|
Ý
|
PHẠM
|
欽
|
華
|
稱
|
懿
|
範
|
NHẢ
|
CHÁNH
|
THỦY
|
HOẰNG
|
QUI
|
雅
|
止
|
始
|
弘
|
規
|
KHẢI
|
ĐỂ
|
ĐẰNG
|
CẦN
|
DỰ
|
愷
|
悌
|
滕
|
勤
|
譽
|
QUYẾN
|
NINH
|
CỌNG
|
TRẤP
|
HY
|
眷
|
寧
|
共
|
緝
|
熙
|
x. Ngài Từ Sơn Công (Hoàng thập tam tử của Đức Gia-Long)
TỪ
|
THỂ
|
DƯƠNG
|
QUỲNH
|
CẨM
|
慈
|
寀
|
揚
|
瓊
|
錦
|
PHU
|
VĂN
|
ÁI
|
DIỆU
|
DƯƠNG
|
敷
|
文
|
藹
|
耀
|
彰
|
BÁCH
|
CHI
|
QUÂN
|
PHỤ
|
DỰC
|
百
|
支
|
皆
|
輔
|
翼
|
VẠN
|
DIỆP
|
HIỆU
|
KHUÔN
|
TƯƠNG
|
萬
|
葉
|
効
|
匡
|
襄
|
Các nhánh của các Hoàng-tử con Đức Minh-Mạng đặt chữ lót theo bài Đế Hệ Thi và đặt lên theo mỗi nhánh mỗ bộ, hoặc Mộc (木), Thủy (水), Mịch (冖) vân vân ..
Bài Đế Hệ Thi:
MIÊN
|
HƯỜNG
|
ƯNG
|
BỬU
|
VĨNH
|
綿
|
洪
|
膺
|
寶
|
永
|
BẢO
|
QUÝ
|
ĐỊNH
|
LONG
|
TRƯỜNG
|
保
|
貴
|
定
|
隆
|
長
|
HIỀN
|
NĂNG
|
KHAM
|
KẾ
|
THUẬT
|
賢
|
能
|
堪
|
繼
|
述
|
THẾ
|
THOẠI
|
QUỐC
|
GIA
|
XƯƠNG
|
世
|
瑞
|
國
|
嘉
|
昌
|
Nhờ có các bài thơ Để Hệ và Phiên Hệ, Hoàng phải mới dễ phân biệt thể thứ. Ví dụ các chữ MỸ, LƯƠNG, TỊNH, DIỄN... thì đối ngang với chữ MIÊN.
Ngày nay trong Hoàng Tộc, về các Hệ Chánh, đã đặt tên xuống đến chữ thứ sáu hoặc thứ bảy.
Cách đặt chữ lót trên này là chỉ để dùng cho phái đàn ông mà thôi, còn đàn bà thì khác hẳn. Con các vị vua phần nhiều đặt tên đôi. Trước chữ tên chỉ thêm vào hai chữ CÔNG CHÚA. Con các vị Hoàng-Tử gọi là CÔNG NỮ THỊ, cháu gọi là CÔNG TÔN NỮ THỊ, CÔNG HUYỀN TÔN NỮ THỊ V. v... Ba chữ TÔN NỮ THỊ dùng chỉ các cô thuộc về các HỆ TÔN THẤT.
HỆ VÀ PHÒNG
Trong Hoàng Tộc chia ra thành từng phòng, từng hệ. Một Hệ gồm có nhiều hay ít Phòng là tùy theo vị Chúa hay vị Vua ấy sanh hạ nhiều hay it Hoàng-Tử. Mỗi vị Vua hoặc Chúa mở ra một Hệ, mỗi ông Hoàng mở ra một Phòng
CÁC HỆ TÔN THẤT
Hệ Nhứt
Đức Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế đã khai sáng ra Nguyễn Triều ta và lập thành Hệ Nhứt.
Ngài húy NGUYỄN-KIM, sanh năm 1468, mất năm 1545. Ngài sanh hạ được hai vị Hoàng-Tử: Tả Tưởng Lãng Quận Công Nguyễn-Uông, Đức Thái Tổ Gia Dũ Hoàng Đế Nguyễn-Hoàng và Công Chúa Ngọc Bửu.
Lăng của ngài lên gọi là Trường-Nguyên, táng ở núi Triệu Tường, thuộc làng Quí-Hương, huyện Qui Huyện, tỉnh Thanh Hóa. Lăng của Đức Bà cũng táng gần đó.
Đức Triệu-Tổ Tịnh Hoàng-Đế và bà Nguyên Phối đều thờ tại Triệu-Miếu trong Kinh-Thành nội. Nhà thờ ngài Tả Tướng Lãng Quận Công tọa lạc gần Long-Thọ (làng Dương-Xuân) Huế.
Hiện nay, kẻ về đàn ông, Hệ Nhứt được 320 người.
Hệ Nhì
Hệ Nhì là hệ của đức Thái-Tổ Gia Dụ Hoàng-Để.
Đức Thái-Tổ Gia Dũ Hoàng-Đế sanh năm 1525, mất năm 1613. Năm 1558 ngài vào trấn thủ ở Thuận Hóa.
Ngài có mười vị Hoàng-Tử: 1.- Thái-Bảo Hòa-Quận Công, 2.- Hoàng-Tử-Hán, 3.- Hoàng-Tử-Thành, 4.- Hào- Quận Công, 5.- Hoàng-Tử-Hải, 6.- Hy-Tôn Hiểu Văn Hoàng Đế, 7.- Hoàng Tử-Hiệp, 8.- Hoàng-Tử-Trạch, 9.- Hoàng-Tử-Dương, 10.- Nghĩa-Hưng Quận Vương và hai bà Công Chúa Ngọc-Tiên và Ngọc-Tú.
Vì can quốc chánh, nên Hoàng-Tử-Hiệp và Hoàng Tử-Trạch bị tước tịch. Con cháu về sau đều lấy họ Nguyễn Thuận.
Đức Thái-Tổ Gia-Dủ Hoàng-Đế đem mấy người cháu nội là ông Hắc, ông Vỉnh (con Hoàng Tử Hán), ông Nghiêm, ông Long, ông Cương, ông Chất (con Hoàng-Tử-Hải) gởi cho vua Lê để làm tin. Mấy ông này về sau đã lập lên họ NGUYỄN-HỰU. Lăng Đức Thái-Tổ Gia- Dủ Hoàng-Đế gọi là Trường-Cơ, ở làng La-Khê, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa-Thiên. Lăng Đức Bà táng tại làng Hải-Cát cùng thuộc huyện Hương-Trà.
Ngài và Bà đều thờ tại Chánh Án Trong Thái-Miếu (Kinh Thành Nội).
Hệ Nhì có ba Phòng, nam 270 người. Mỗi Phòng đều có nhà thờ riêng. Nhà thờ ngài Hòa-Quận-Công và Hào- Quận Công đều tại làng Dương-Xuân-Hạ, tồng Cư-Chánh, huyện Hương-Thủy, tỉnh Thừa-Thiên. Nhà thờ ngài Nghĩa Hưng Quận-Vương ở làng Phổ-Nam, tồng Dương Nổ, huyện Phú-Vang, tỉnh Thừa Thiên.
Hệ Ba
Hệ Ba là hệ Đức Hy-Tôn Hiếu-Văn Hoàng-Để. Ngài sanh năm 1563, mất năm 1635. Ngài đã đổi họ NGUYỄN-VĂN thành NGUYỄN-PHƯỚC. Ngải sanh hạ 11 vị Hoàng nam: 1.— Khánh-Quận-Công. 2. – Đức Thần-Tôn Hiếu-Chiêu Hoàng-Đế, 3, – Hoàng-Tử Anh, 4. – Hoàng
tử Trung, 5.– Hoàng tử An, 6, Hoàng-tử Vĩnh, 7.- Hoàng-tử-Lộc, 8. Hoàng-tử-Tứ, 9.- Hoàng-tử-Thiệu, 10. – Vinh-Quận-Công, 11. – Hoàng-tử-Đôn. Bốn hoàng nữ: Ngọc-Liên, Ngọc-Vạn, Ngọc-Khoa, Ngọc-Đĩnh.
Ngọc-Liên hạ giá cùng phò-mã Nguyễn-phước-Vĩnh, con của Mạc cảnh-Uông. Nguyễn phước-Vĩnh lập ra họ NGUYỄN-HỮU. Ngọc-Đĩnh Công-chúa kết duyên cùng Nguyễn-cửu-Kiều, người sáng lập ra họ NGUYỄN-CỮU (久)
Lăng Trường Diễn, tức lăng của Đức Hy-Tôn Hiếu- Văn Hoàng-Đế, táng tại làng Hải-Cát, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa-Thiên. Lăng của Đức Bà (Vĩnh-Diễn) hiện ở làng Chiêm-Sơn, huyện Duy-Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
Ngài và Bà đều thờ tại Thái-Miếu, Ấn tả Nhứt.
Trong các vị Hoàng tử con Đức Hy-Tôn-Hiếu Văn Hoàng Đế, Hoàng-tử-Anh và Hoàng-tử-Trung, vì can quốc sự nên bị tước tịch.
Hệ Ba hiện có hai Phòng, nam được 340 người. Mỗi Phòng có nhà thờ riêng. Nhà thờ ngài Khánh-Quận-Công ở làng Dương-Nỗ, nhà thờ ngài Vinh-Quận-Công ở làng Ngọc-Anh, cả hai nhà thờ đều thuộc huyện Phú Vang, tỉnh Thừa-Thiên.
Hệ Tư
Hệ Tư là hệ của Đức Thần-Tôn-Hiếu-Chiêu Hoàng Đế.
Ngài sanh năm 1601, mất năm 1648. Ngài sanh hạ ba Hoàng-Tử: 1.– Hoàng-tử-Vỏ, 2.– Đức-Thái-Tôn-Hiếu Triết Hoàng Đế, 3.– Hoàng tử Quỳnh và một là Công Chúa (danh tự thất tường).
Lăng ngài Thần-Tôn-Hiếu-Chiêu Hoàng Để gọi là Trường-Diên, láng tại làng An-Bằng, huyện Hương-Thủy, tỉnh Thừa-Thiên. Lăng của Đức bà tên gọi Vĩnh-Điện, ở làng Chiêm-Sơn, huyện Duy-Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Đức Thần-Tôn-Hiếu-Chiêu Hoàng-Đế và hà Nguyên-Phối đều thờ lại Thái-Miếu, Án Hữu Nhứt.
Hoàng tử Vỏ và Hoàng tử-Quỳnh mất sớm thành vô tự, vì thế nên hệ tư không có.
Hệ Năm
Đức Thái-Tôn-Hiếu-Triết Hoàng-Đế khai sáng ra Hệ Năm.
Ngài sanh năm 1620, mất năm 1687, sanh hạ được sáu Hoàng tử: 1.- Phước Quốc-Công, 2.– Anh-Tôn-Hiếu- 2- Nghĩa Hoàng-Đế, 3. – Cương-Quận-Công, 4.– Quốc Oai- Công, 5.– Hoàng-tử Niên, 6.– Hoàng-tử-Nhiều và ba Hoàng nữ: Công Chúa Ngọc-Tào và hai bà thất tường.
Lăng Đức Thái Tôn-Hiếu-Triết Hoàng-Đế (Trường Hưng), ở làng Hải-Cát, huyện Hương-Trà, tỉnh Thừa-Thiên. Lăng của Đức Bà (Vĩnh Hưng) ở làng An-Ninh, huyện Hương-Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Ngài lại còn một bà thứ hai nữa, láng tại lăng Quang-Hưng ở làng Định-Môn, huyện Hương-Trà, tỉnh Thừa Thiên.
Ngài và hai bà đều thờ tại Thái-Miếu, Tả nhị án.
Hệ năm hiện có ba phòng nam 300 người. Ba nhà thờ: nhà thờ ngài Phước Quận-Công ở làng La-Ỷ, lồng Dương- Nô, nhà thờ ngài Cương Quận-Công ở làng Lại Thế, tổng Ngọc Anh. Hai nhà thờ này đều ở huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Nhà thờ ngài Quốc Oai-Công ở làng Vân-Thê, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
Hệ Sáu
Đức Ngài Anh-Tôn-Hiểu-Nghĩa Hoàng Để sanh năm 1649, mất năm 1691. Ngài sanh hạ năm Hoàng tử: 1. – Hiền-Tôn-Hiếu-Minh Hoàng-Đế, 2. Hoàng tử Tuấn, 3. – Hoàng tử Toàn, 4.– Hoàng-tử Trinh, 5.– Hoàng- tử Quảng và các bà Công-chúa : Ngọc-Nhiệm, Ngọc Niểu và 2 bà nữa tên tuổi không rõ.
Lăng đức Anh-Tôn-Hiếu-Nghĩa Hoàng Đế (Trường Mậu), ở làng Kim-ngọc, huyện Hương-trà, tỉnh Thừa Thiên. Lăng của Đức Bà (Vĩnh-Mậu) ở làng Định môn, huyện Hương-Trà.
Ngài và Bà đều thờ tại Thái-Miếu, Hữu nhị án.
Ngoài Đức Hiển-Tôn-Hiếu-Minh Hoàng-Để ra, các vị Hoàng tử khác đều vô tự cả, nên không có hệ sáu.
Hệ Bảy
Hệ bảy là hệ của Đức Hiền-Tôn-Hiếu-Minh Hoàng Để. Ngài sanh năm 1675, mất năm 1725, sanh hạ 38 Hoàng tử, và 4 Hoàng-nữ. 1. Đức Túc-Tôn-Hiếu-Ninh Hoàng-Để, 2. Hoàng-tử Thề, 3. Không rõ, Hoàng-tử Long, 5. – Hoàng-tử Hải, 6. Không rõ, 7.– Hoàng tử Liêm, 8.– Luân quốc Công, 9.– Hoàng tử Thử, 10.– Hoàng tử Lân, 11. – Hoàng tử Chấn, 12– Nhân- quốc Công, 13. Hoàng-tử Hàng, 14. – Hoàng tử Thiện, 15.- Hoàng-tử Khánh, 16.– Hoàng tử Cảo, 17.– Hoàng tử Binh, 18. Chưởng cơ Quận công, 19. – Chưởng vệ Hoàng-tử Khảm, 21,Quận công, 20. Hoàng-tử Quân, 22.– Hoàng-tử Luân, 23. Hoàng tử Binh, 24.— Hoàng. tử Tôn, 25. Hoàng-tử Nghiễm, 26. – Hoàng tử Hưng, 27.- Thiếu bảo Thạnh Quận công, 28.– . Hoàng tử Hao, 29. -- Hoàng-lữ Kỷ, 30.– Hoàng tử Thuyên, 31. — Hoàng- Tu Hanh, 32. – Hoàng tử Lộc, 33. Hoàng-tử Triêm,
34.– Hoàng tử Khiêm, 35, 36, không rõ, 37.- Hoàng tử Độ, 38. Hoàng tử Tài và các bà Chúa : Ngọc Sang, Ngọc-Phụng, Ngọc-Nhật và một bà không rõ.
Lăng Đức Hiển-lôn Hiểu-Minh Hoàng Đế (Trường Thanh) ở tại làng Kim-ngọc, lăng của Đức Bà (Vĩnh-Thanh) ở làng Trúc-lâm, hai lăng này đều thuộc huyện Hương- trà, tỉnh Thừa thiên
Ngài và Bà đều thờ tại Thái-Miếu, Tả Tam án
Hệ Bảy hiện có 27 Phòng, nam được 1.420 người.
Mỗi Phòng đều có nhà thờ riêng và đều ở tỉnh Thừa thiên, trong các huyện Phú-lộc, Hương-trà, Hương thủy, Ở Tôn-thất xã, tổng An-nông, có nhà thờ ngài Hoàng Nhị- tử ; cùng trong tổng ấy, ở làng Xuân-lai có nhà thờ ngài Hoàng Nhị-thập-nhứt-tử. Nhà thờ ngài Hoàng Thập ngũ tử, ngài Hoàng Tam thập-tử ở làng Vinh hòa, ngài Hoàng tam thập-tam-tử ở làng Phú-an cũng đều lại tổng Diêm trường.
Các ngài Hoàng Tứ-tử, Ngũ-tử, Thập nhị, Thập-lục, Nhị-thập-ngũ, Nhị thập-lục-tử đều thờ tại làng An cựu, làng An-cựu, ngài Hoàng Cửu-tử có nhà thờ lại làng Lương quán, tổng Cư-chánh; ngài Hoàng Nhị thập tử thờ tại làng Bằng-lảng, tổng Cư-chánh, huyện Hương thủy.
Ở huyện Hương trà thì có nhà thờ các ngài: Hoàng Thập Tử. Hoàng Thập-thất, Thập-bát, Nhị thập nhị, Nhị- thập thất, Tam thập nhị, Tam thập thất-tử đều tại làng Phú xuân, tổng Phú-xuân; các ngài Hoàng Thất-tử, Hoàng thấp nhứt ở nhà thờ ở làng Định-môn, Tông Long hồ, Ngài Hoàng Bát Tủ nhà thờ ở làng Hương cầu, tổng Hương cần, ngài Hoàng Thập-lam tử nhà thờ ở làng Vạn - xuân, tồng An-ninh, ngài Hoàng Thập cửu tử nhà thờ ở làng Lá-chữ, tổng Long-Hồ, nhà thờ ngài Hoàng nhị thập Lam tử ở làng Ân vàn và nhà thờ ngài Hoàng Nhị-thập - cửu-tử ở làng Long-hồ cũng trong tổng An-ninh.
Hệ Tám
Đức Túc-Tôn-Hiếu-Ninh Hoàng-Đế khai-sáng ra Hệ tám. Ngài sanh năm 1696, mất năm 1738, sanh-hạ ba Hoàng-tử: 1. — Thế-Tôn-Hiếu-Võ Hoàng Đế, 2. – Thiếu- Bảo Nghiễm Quận công, 3.– Tường-Quan-Hầu, và các bà chúa : Ngọc-Sách Ngọc-Doãn, Ngọc Biện, Ngọc Uyển và một bà không rõ.
Lăng của ngài Túc-Tôn-Hiếu-Ninh Hoàng-Để tên gọi Trường-Phong, ở làng Định-môn, lăng của Đức-Bà (Vinh- Phong) ở làng Long-Hồ, đều thuộc huyện Hương-trà, tỉnh Thừa thiên.
Ngài và Bà đều thờ tại Thái-Miếu, Hữu tam án
Hệ tám chỉ có hai phòng, đàn ông được 94 người. Nhà thờ ngài Thiếu Bảo Nghiễm Quận công thờ tại làng An- ninh-thượng, tỗng An-ninh, huyện Hương-trà, nhà thờ ngài Tường-quan-Hầu thờ tại làng Dương xuân thượng, tổng Cư-chánh, huyện Hương-thủy, tỉnh Thừa-thiên.
Hệ Chín
Hệ chín là Hệ của Đức Thế Tôn-Hiếu-Võ Hoàng-Đế. Ngài sanh năm 1714, mất năm 1765. Ngài có 18 Hoàng- tử: 1.– Hoàng tử Chương, 2.– Đức Hưng-Tổ-Hiếu- Khương Hoàng-Đế, 3.– Hoàng-tử Mão, 4. — Thành Quận- Công, 5.— Hoàng-tử Dục, 6. – Hoàng tử Điệc. 7. Hoàng- tử Kỉnh, 8.- Hoàng-tử Bản. 9. – Tuyên-Vương, 10.-- Hoàng-tử Yến, 11. – Hoàng tử Tuấn, 12. - Hoàng lử khoản, 13. – Hoàng tử Đản, 14. - Hoàng-tử Quyền, 15. Hoàng tử Diệu, 16.– Đức Duệ-Tôn Hiếu-Định Hoàng Đế, 17. – Hoàng tử Xuân, 18.– Phước long công, và các bà Chúa : Ngọc Huyên. Ngọc Nguyện, Ngọc-Thành, Ngọc-Ái, Ngọc-Nguyệt, Ngọc Cư, Ngọc-Thọ, Ngọc Xuyến, Ngọc Diệu, và Ngọc-Cơ.
Lăng của Đức-Thế-Tôn-Hiếu-Vỏ Hoàng Đế tên gọi Trường-Thái táng ở làng La-Khê, huyện Hương-trà, tỉnh Thừa-Thiên ; lăng của Đức Bà tên gọi Vĩnh Thái táng ở làng Dương-xuân, huyện Hương-thủy, tỉnh Thừa-Thiên,
Đức Thế-Tôn-Hiếu-Võ Hoàng Đế và Đức-Bà đều thờ tại Thái-Miếu, Tả tử án.
Hệ chín có 7 phòng, nhân số nam được 350 người.
Nhà thờ ngài Hoàng lục tử và Hoàng Thập-thất-tử đều tọa-lạc tại làng Dương-xuân, tổng Cư-chánh, huyện Hương-thủy; ngài Hoàng Tam tử nhà thờ tại làng Long-hồ, tổng An-ninh, huyện Hương-trà, ngài Hoàng Tứ tử nhà thờ tại làng Phổ trung, huyện Phú-vang, ngài Hoàng Thất tử nhà thờ tại làng Xuân-lai, tổng An-nông, huyện Phú-lộc, ngài Hoàng Thập tử nhà thờ tại làng Dương-phẩm, tổng An- cựu, huyện Hương-thủy, ngài Hoàng Thập-bát tử nhà thờ ở làng Công-lương, tổng An-cựu, huyện Hương thủy, tỉnh Thừa-Thiên.
Đến Hệ Chín thì vừa hết các hệ Tôn-Thất.
Hai vị Hoàng tử con Đức Thế-Tôn-Hiếu-Võ Hoàng-Để là Đức Duệ-Tôn Hiếu Định Hoàng-Đế và Đức Hưng-Tổ- Hiếu Khương Hoàng-Đế. Đáng lẽ hai ngài này đều có khai sáng mỗi ngài một Hệ riêng, nhưng vì Đức Duệ Tôn lại chỉ sanh được một bà Chúa, còn Đức Hiếu-Khương, ngoài Đức Thế-Tổ-Cao Hoàng Đế khai sáng hệ Nhứt Chánh, thì không còn vị Hoàng-Tử nào nữa.
Lăng Đức Duệ-Tôn Hiếu Định Hoàng-Đế (Trường Thiệu) ở tại làng La-Khê, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa-Thiên, còn lăng của Đức Bà vì lâu ngày thất lạc nên hiện không biết ở đâu.
Đức Duệ-Tôn-Hiếu Định Hoàng Đế và Bà đều thờ tại Thái-Miếu, Hữu tử án.
Lăng Đức Hưng-Tổ-Hiếu-Khương Hoàng-Đế (Cơ-Thánh) táng lại làng Cư-Chánh, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, lăng của Đức bà (Thoại-Thánh) ở làng Định- Môn, huyện Hương Trà. Ngài và Bà đều thờ ở Hưng Miếu tại Kinh Thành nội. Cả thảy 9 Hệ, trừ hệ tư và hệ sáu, vì vô tự, nên hiện chỉ còn 7 Hệ mà thôi. Theo bản tổng kê kỳ tháng hai năm 1942, các hệ Tôn-Thất gồm có năm 3,100 và nữ 2.800 người.
CÁC HỆ CHÁNH
Các Hệ từ Triều Gia-Long trở về sau đều gọi là HỆ CHÁNH đề phân biệt với các HỆ TỔN THẤT của các Triều trước
|
Hệ Nhứt Chánh
Hệ Nhứt Chánh là Hệ của các vị Hoàng Tử con Đức Thế Tổ Cao Hoàng Đế (Gia-Long).
Vua Gia-Long sanh năm 1762, mất năm 1819. Sau khi đã bình định nước Việt Nam, ngài tức Hoàng Đế vị năm 1802 và khai sáng ra Nguyễn Triều.
Ngài có 13 vị Hoàng Tử và 18 vị Hoàng Nữ:
Hoàng Tử: 1- Đông Cung Nguyên Soái Tăng-Duệ Hoàng-Thái-Tử, 2 – Thuận-An-Công, 3 Hoàng-tử-Tuấn, 4 – Thánh-Tổ-Nhơn-Hoàng-Đế (Minh-Mạng), 5 – Kiến-An-Vương, 6 – Định-Viễn Quận-Vương, 7 – Diên-Khánh-Vương, 8 – Điện-Bàng-Công, 9 — Thiệu-Hoá-Quận-Vương, 10.- Quản-Oai-Công, 11 Thường Tín-Quận-Vương, 12 – An-Khánh Quận-Vương, 13 – Từ-Sơn Công.
Lăng của các ngài là lăng Thiên-Thọ, không mấy người không biết, thuộc địa phận làng Định Môn, huyện Hương- trà, tỉnh Thừa-Thiên. Lăng bà Thừa Thiên Cao-Hoàng-Hậu và bà Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu, nguyên phối và đệ nhị phối của ngài cũng đều táng tại vùng ấy cả.
Ngài và hai bà đều thờ tại Chánh án Thế Miếu và tại Chánh án điện Phụng tiên ở Kinh Thành nội.
Hệ Nhứt chánh gồm có 9 phòng, tổng cộng về nam được 380 người.
Sau đây là bản kể tên các phòng, thể thứ các vị Hoàng- tử và chỗ nhà thờ tọa lạc:
Thế-Thứ
|
TƯỚC CỦA CÁC VỊ HOÀNG-TỬ
|
CHỖ NHÀ THỜ TOA-LAC
|
1
|
Tăng-Duệ Hoàng Thái-Tử
|
Làng Vân-dương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên
|
5
|
Kiến-An-Vương
|
Ấp Hô Lâu, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên
|
6
|
Định-Viễn Quận-Vương
|
Làng Dương-nổ, huyện Phú- vang, tỉnh Thừa thiên
|
7
|
Diên Khánh-Vương
|
Làng Vi-dạ, huyện Phủ-vang, tỉnh Thừa thiên.
|
8
|
Điện-Bảng-Công
|
Làng Thần phủ, huyện Hương thủy, tỉnh Thừa thiên.
|
9
|
Thiệu Hoả Quận Vương
|
Làng Vỉ dạ, huyện Phú-vang, tỉnh Thừa thiên.
|
11
|
Thường-Tín Quận-Vương
|
Làng Xuân-vinh, huyện Phú- lộc, tỉnh Thừa thiên.
|
12
|
An-Khánh-Vương
|
Xã Xuân-hòa, huyện Hương trà, tỉnh Thừa thiên.
|
13
|
Tử-Sơn-Công
|
Làng Xuân hoà, huyện Hương trà, tỉnh Thừa-thiên
|
Hệ Nhì Chánh
Hệ nhì Chánh là Hệ của các vị Hoàng tử con Đức Minh- Mạng (Thánh Tổ Nhơn Hoàng Đế).
Đức Thánh lỗ Nhơn Hoàng Để sanh năm 1791, mất năm 1840. Ngài có 78 Hoàng nam và 64 Hoàng nữ.
Hoàng nam :1— Đức Hiến Tổ Chương Hoàng Đế, 2– Hoàng tử Chánh, 3 — Thọ Xuân Vương, 4 Ninh Thuận Quận Vương, 5 Vĩnh Tường Quận Vương, 6 –Phú Bình Quận Vương, 7 – - Nghi Hoà Quận Công, 8 – Phù Mỹ
quận công, 9 Hàm Thuận quận công, 10 Tùng Thiện Vương, 11 Tuy Lý Vương, 12. Tương An quận vương , 13 – Tuân quốc công. 14 – Hoàng tử Hưu, 15 Lạc Hóa quận công, 16. Hà Thanh quận công, 17. Hoàng tử Thành, 18. Nghĩa Quốc công, 19. Tảo thương, 20. Tảo thương, 21. Hoàng-tử Nghi, 22 – Hoàng tử Long, 23 — Trấn Mang Quận Công, 24 – Tảo thương, 25. Tảo thương, 26 – Sơn Định Quận Công, 27. Tân Bình quận công, 28 – Hoàng tử Trạch, 29. Qui Châu quận vương, 30. Quản Ninh quận vương, 31. Sơn Tịnh quận công, 32. Quản Biên quận công, 33. Lạc Biên quận công, 34. Hoàng-tử Hoan, 35. Ba Xuyên quận công, 36 – Kiến Tường công, 37 Hòa Thạnh vương, 38 – Tảo thương, 39– Tảo thương, 40 – Hòa quốc công, 41. Tuy An quận công, 42. Hải quốc công, 43 – Hoàng-tử Tính, 44 – Tây ninh quận công, 45 – Trấn tịnh quận công, 46 – Tảo thương. 47 Quảng Trạch quận công. 48 – An quốc công, 49 Tịnh gia công, 50 – Tảo thương, 51 - Trấn Biên quận công, 52. Điện Quốc công, 53. Tuy Biên quận công, 54. Quế Sơn quận công, 55. Phong Quốc công, 56. Trấn Định quận công, 57. Hoài Đức quận vương, 58. Duy Xuyên quận công, 59. Cẩm Giang quận công, 60. Quản Hóa quận công, 61. Nam Sách quận công, 62. Hoàng-tử Tru, 63. Hoàng-tử Khê, 64. Hoàng-tử Ngữ, 65. Trấn Quốc công, 66. Hoằng Hóa quận vương, 67. Hoàng-tử Tuất, 68. Tân An quận công, 69. Bảo An quận công, 70. Hậu Lộc quận công, 71. Kiến Hòa quận công, 72. Kiến Phong quận công, 73 Vĩnh Lộc quận công, 74. Phù-Cát quận công, 75 – Cầm Xuyên quận vương, 76 – An xuyên vương, 77 Hoàng tử Sách. 78 – An Thành vương.
Lăng của Đức Minh Mạng, là Hiểu-Lãng, tại làng An. bằng, huyện Hương-trà, tỉnh Thừa-thiên. Lăng của bà Tá Thiên Nhơn Hoàng Hậu gọi là Hiếu Đông Lăng, tại làng Cư chánh, huyện Hương thủy, tỉnh Thừa-thiên.
Ngài và bà đều thờ ở Tả-nhứt-Án tại Thế-Miếu và Tả nhứt-Án điện Phụng-Tiên.
Hệ Nhì Chánh là hệ đồng nhứt trong các hệ, gồm có 56 phòng và nam 1.800 người.
Sau đây là bản kê thế thứ các Phòng và chỗ các nhà thờ:
Thế-Thứ
|
TƯỚC CỦA CÁC VỊ HOÀNG-TỬ
|
CHỖ NHÀ THỜ TOA-LAC
|
3
|
Thọ-xuân-Vương
|
Phường Phú-cát, Huế
|
4
|
Ninh-Thuận Quận vương
|
Làng Tiên-nộn, tổng Mậu-Tài huyện Phủ-vang, tỉnh Thừa-thiên.
|
5
|
Vĩnh-Tường Quận vương
|
Phường Phú-cát, Huế
|
6
|
Phú Bình Quận vương
|
Phường Phú-cát, Huế
|
7
|
Nghi-Hòa Quận công
|
Làng Hương-cần, huyện Hương. trả, tỉnh Thừa thiên
|
8
|
Phù-Mỹ Quận công
|
Phường Phú-cát, Huế
|
9
|
Hàm-Thuận Quận công
|
Phường Phú-hội, Huế
|
10
|
Tùng thiện vương
|
43 b, Quai de la Susse, Hué
|
11
|
Tuy lý.Vương
|
Làng Vi-dạ, huyện Phú-vang, tỉnh Thừa-thiên
|
12
|
Tương-An Quận vương
|
Làng Nguyệt-biều, tổng Cư-chánh, huyện Hương thủy, tỉnh Thừa thiên
|
13
|
Tuân quốc Công
|
Phường Phú-cát, Huế
|
15
|
Lạc-Hóa quận công
|
Làng Bình-lộc, huyện Phú-vang, tỉnh Thừa thiên
|
16
|
Hà Thanh Quận công
|
Làng Kim-long, huyện Hương trà, tỉnh Thừa thiên
|
Thế-Thứ
|
TƯỚC CỦA CÁC VỊ HOÀNG-TỬ
|
CHỖ NHÀ THỜ TOA-LAC
|
18
|
Nghĩa-Quốc-Công
|
Phường Phú nhuận, Huế.
|
23
|
Trấn-Mang Quận Công
|
Làng Phước-quả, tổng Cư-chánh, huyện Hương thủy, tỉnh Thừa thiên
|
26
|
Sơn-Định Quận Công.
|
Làng An-cựu tây, huyện Hương thủy, tỉnh Thừa thiên
|
27
|
Tân-Bình Quận Công
|
Phường Phú-cát, Huế
|
29
|
Qui Châu Quận Công
|
Làng Hà-lang, huyện Quảng điền, tỉnh Thừa thiên
|
30
|
Quản-Ninh Quận Công
|
Phường Phú-mỹ, Huế
|
31
|
Sơn-Tịnh Quận Công
|
Làng An Cựu tây, huyện Hương thủy, tỉnh Thừa Thiên
|
32
|
Quản Biên Quận Công
|
Phường Phú-mỹ, Huế
|
33
|
Lạc-Biên Quận Công
|
Phường Phú-cát, Huế
|
35
|
Ba-Xuyên Quận-Công
|
Phường Phú-mỹ, Huế
|
36
|
Kiến-Tường Công
|
Làng Vi-dạ, huyện Phú vang, tỉnh Thừa thiên
|
37
|
Hòa-Thạnh-Vương
|
Phường Phú-mỹ, Huế
|
40
|
Hòa Quốc-Công
|
Phường Long-Thọ, huyện Hương thủy, tỉnh Thừa thiên.
|
41
|
Tuy-An Quận Công
|
Phường Phú-mỹ, Huế
|
42
|
Hải-Quốc-Công
|
Chánh-tây-môn ngoại, Huế.
|
44
|
Tây-Ninh Quận Công
|
Làng Bình-an, huyện Hương-thủy, tỉnh Thừa thiên
|
45
|
Trấn-Tịnh Quận-Công
|
Phường Phú-nhơn, Huế
|
47
|
Quản Trạch quận công
|
Phường Phú-mỹ, Huế.
|
48
|
An-Quốc-Công
|
Cạnh ga Kim-long, Huế
|
49
|
Tịnh-Gia-Công
|
Làng Kim-long huyện Hương trà, tỉnh Thừa-thiên
|
51
|
Trấn-Biên Quận Công
|
Bảng Gia-lê-thượng, huyện Hương thủy, tỉnh Thừa thiên.
|
Thế-Thứ
|
TƯỚC CỦA CÁC VỊ HOÀNG-TỬ
|
CHỖ NHÀ THỜ TOA-LAC
|
52
|
Điện Quốc-Công
|
Phường Phú Mỹ, Huế.
|
53
|
Tuy Biên Quận Công
|
Làng Nam Phổ-nam, huyện Phú vang, Tỉnh Thừa thiên
|
54
|
Quế Sơn Quận Công
|
Làng An-ninh-thượng, huyện Hương-trà, tỉnh Thừa thiên
|
55
|
Phong Quốc-Công
|
Làng Vỉdạ, huyện Phú-vang, tỉnh Thừa-thiên
|
56
|
Trấn Định Quận Công
|
Làng Bình-môn, huyện Phú-lộc, tỉnh Thừa thiên
|
57
|
Hoài-Đức Quận Vưởng
|
Phường Phú cát, Huế
|
58
|
Duy Xuyên Quận Công
|
Làng Bình-môn, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa thiên
|
59
|
Cảm-Giang-Quận Công
|
Phường Phú-mỹ, Huế
|
60
|
Quản Hoá Quận Công
|
Làng Phù-trạch, huyện Phong- điền, tỉnh Thừa thiên
|
61
|
Nam-Sách Quận Công
|
Lăng Trường cưới, huyện Hương trà, tỉnh Thừa Thiên.
|
68
|
Tân An Quận Công
|
Làng Nam-Phổ nam, huyện Phú-vang, tỉnh Thừa thiên
|
69
|
Bảo An Quận-Công
|
Phường Phú-mỹ, Huế
|
70
|
Hậu-Lộc Quận Công
|
Phường Phú-mỹ, Huế
|
71
|
Kiến-Hòa Quận Công
|
Làng An-Cựu-Tây huyện Hương-Thủy, tỉnh Thừa-Thiên
|
72
|
Kiến-Phong Quận-Công
|
Phường Phú-mỹ, Huế
|
73
|
Vĩnh Lộc Quận Công
|
Làng.An quán, huyện Hương trà, tỉnh Thừa-thiên
|
74
|
Phù-Cát Quận-Công
|
Làng Nam-phở nam, huyện Phú- vang, tỉnh Thừa thiên
|
75
|
Cảm-Xuyên Quận Vương
|
Làng Vạn xuân, huyện Hương. trà, tỉnh Thừa thiên.
|
76
|
An-Xuyên-Vương
|
Phường Phú-mỹ, Huế
|
78
|
An-Thành-Vương
|
Phường Phú-cát, Huế.
|
Hệ ba chánh
Các vị Hoàng tử con đức Thiệu-Trị (Hiến-Tổ-Chương Hoàng-Đế) họp lại thành Hệ Ba chánh. Đức Thiệu-Trị sanh năm 1807, mất năm 1847, sanh hạ được 29 Hoàng tử và 3 Hoàng nữ.
Hoàng Tử: 1–An-Phong quận-vương, 2– Đức Dục- Tòn-Anh Hoàng-Đế, 3 -- Thái Thạnh quận-vương, 4 Thoại-thái-vương, 5 Hoàng-tử Kiêm, 6 - Hoằng-Trị vương, 7 – Vĩnh-quốc-công, 8 – Gia-Hưng-vương, 9 - Phong-lộc quận vương, 10 — An-Phước quận-vương, 11 Hoàng tử Thiệu, 12– Tuy-Hòa quận-vương, 13 – Hoàng-tử Bàng, 14 – Hoàng-tử Sâm, 15 – Hoàng-tử Trứ, 16 Hương Sơn quận công, 17 – Hoàng tử Thi, 18 – Mỹ Lộc quận công, 19 Tảo thương, 20 Hoàng-tủ Hy, 21 – Hoàng tử Cơ, 22 – Hoàng-tử Trụ, 23–Kỳ-phong quận-công, 24– Tảo thương, 25 – Phú lương công, 26 – Thuần Nghị- Kiên thái vương, 27 – Tảo thương, 28 – Hoàng tử Nghê, 29 — Văn Lãng quận vương (Hiệp-Hòa Phổ-Đế).
Lăng đức Thiệu-Trị (Xương-Lăng) láng tại núi Thuận- Đạo, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Lăng của bà Nghi Thiên-Chương Hoàng-Hậu (Xương-thọ lăng) ở tại làng Cư Chánh huyện Hương thủy. Đức Thiệu trị và bà Nguyễn . Phối đền thờ tại Thế-Miếu Hữu nhức ăn và tại Hữu Nhứt ản điện . Phụng-Tiên
Hệ Ba Chánh, kể về nam nhân số 280 người mà gồm có 15 Phòng cả thảy.
Thế-Thứ
|
TƯỚC CỦA CÁC VỊ HOÀNG-TỬ
|
CHỖ NHÀ THỜ TOA-LAC
|
1
|
An Phong Quận-Vương
|
Làng Thanh thủy, huyện Hương thủy, tỉnh Thừa thiên
|
3
|
Thái-Thạnh Quận Vương
|
Làng An-cựu, huyện Hương thủy tỉnh Thừa-thiên
|
4
|
Thoại-Thái-Vương
|
Phường Phú-cát, Huế
|
6
|
Hoằng-Trị-Vương
|
Phường Phú-cát, Huế
|
Thế-Thứ
|
TƯỚC CỦA CÁC VỊ HOÀNG-TỬ
|
CHỖ NHÀ THỜ TOA-LAC
|
7
|
Vĩnh Quốc-Công
|
Ling An-cựu, huyện Hương thủy, tỉnh Thừa thiên
|
8
|
Gia-Hưng Vương
|
Phường Phú Cát, Huế
|
9
|
Phong Lộc Quận-Công
|
Làng Phổ ninh, huyện Phong- điền, tỉnh Thừa thiên
|
10
|
An Phước Quận Vương
|
Phường Phú-cát, Huế
|
12
|
Tuy-Hòa Quận-Vương
|
Phường Phú hội, Huế
|
16
|
Hương Sơn Quận Công
|
Phường Phú-cát, Huế
|
18
|
Mỹ-Lộc Quận Công
|
Phường Huệ-an, Kinh-thành nội
|
23
|
Kỳ Phong Quận Công
|
Phường Phú-cát, Huế
|
25
|
Phú-Lương-Công
|
Làng Xuân hòa, huyện Hương trà, tỉnh Thừa thiên
|
26
|
Kiên-Thái-Vương
|
Phường Phú nhuận, Huế
|
29
|
Văn-Lãng Quận Vương
|
Làng Dương-xuân, huyện Hương- thủy, tỉnh Thừa thiên
|
Hệ tử chánh
Hệ Tứ chánh là Hệ của các vị Hoàng tử con nuôi đức Dục-Tôn-Anh Hoàng-Đế (Tự-Đức).
Đức Dục-Tôn-Anh Hoàng Đế sanh năm 1829, mất năm 1883, vì không con nên phải nuôi ba người cháu: Đức Cung-Tôn-Huệ Hoàng-Đế (Dục Đức) con ngài Thoại-thái- vương, đức Cảnh-Tôn Thuần Hoàng Đế (Đồng-Khánh) và đức Giản tôn-Nghị Hoàng-Đế (Kiến-Phước) đều con của ngài Kiên-Thái-Vương.
Khiêm-lăng (lăng của đức Tự-Đức) ở tại làng Dương-Xuân Thượng, huyện Hương thủy. Lăng của bà Lệ Thiên-Anh Hoàng-Hậu gọi là Khiêm-thọ lăng cũng ở vùng ấy.
Ngài và bà đều thờ lại án Tả nhị Thế Miếu và án Tả nhị điện Phụng tiên.
Trong ba ngài con nuôi của đức Dực-Tôn-Anh Hoàng-Đế, ngài Giản-Tôn mở ra Hệ Ngũ-Chánh, ngài Cảnh-Tòn mở ra Hệ Lục Chánh, nên hệ Tử chánh chỉ còn đức Cung-Tôn-Huệ Hoàng-Đế mà thôi. Đức Cung-Tôn Huệ Hoàng-Đế sanh năm 1852, mất năm 1881 Ngài có 11 Hoàng tử và 8 Công chúa.
Hoàng-tử : 1- Hoàng-tử Cương, 2- Hoàng-tử Thị, 3- Hoàng-tử Mỹ, 4- Hoàng-tử Nga, 5- Hoàng tử Nghi, 6- Hoàng-tử Cồn, 7- Hoài-Trạch-công (Thành-thái), 8- Hoàng tử Chuân, 9- Tuyên-hóa-vương, 10- Hoài ân-vương, 11- Mỷ-hóa-công.
Trong 8 vị Công chúa hiện hai ngài đang còn là ngài Hoàng-trưởng-nữ Mỹ-lương Công chúa và ngài Tân phong Công-chúa.
Ngài và Bà táng tại làng An-lăng ở làng An-cựu, huyện Hương thủy, tỉnh Thừa thiên và thờ lại Cung-Miếu ở Kinh-thành-nội.
Hệ Tử Chánh có 4 phòng, nhân số nam được 60 người.
Thế-Thứ
|
TƯỚC CỦA CÁC VỊ HOÀNG-TỬ
|
CHỖ NHÀ THỜ TOA-LAC
|
7
|
Hoài-Trạch-Công
|
Chưa có, vì ngài còn sống
|
9
|
Tuyên-Hóa-Vương
|
Phường Phú hòa, Huế
|
10
|
Hoài-Ân-Vương
|
Phường Phú-cát, Huế
|
|
Mỹ-Hóa Công
|
Phường Phú-nhuận, Huế
|
Hệ ngũ chánh
Đức Giản-Tôn-Nghị Hoàng-Đế vô tự nên Hệ-Ngũ chánh không có.
Đức Giản-Tôn sanh năm 1869, mất năm 1884, láng ở Bồi Lăng gần Khiêm-Lăng. Ngài thờ ở Thái-Miếu Án-Hữu nhì và ở Án-Hữu nhì điện Phụng-tiên.
Hệ lục chánh
Hệ Lục Chánh là Hệ của các vị Hoàng-tử con đức Cảnh-Tôn-Thuần Hoàng-Đế (Đồng-Khánh).
Đức Đồng-Khánh sanh năm 1864, mất năm 1888, có sáu Hoàng-nam và sáu Hoàng nữ.
Các Hoàng-nam:10 Đức Hoằng-Tôn-Tuyên Hoàng Đế (Khải-Định), 2.- An-Hóa quận vương, 3.- Tảo thương, 4.- Hoàng-Tử-Nga, 5.- Hoàng-tử Cát, 6.- Hoàng-tử Quyền.
Vua Đồng-Khánh táng ở Tư-Lăng, tại làng Dương-xuân-thượng, huyện Hương-thủy, tỉnh Thừa-thiên. Bà Phụ-Thiên-Thuần Hoàng-Hậu (tức là Đức Thánh-Cung) táng ở Tư-minh-Lăng cùng ở trong vùng ấy.
Ngài Khôn-Nghi-Xương Đức Thái-Hoàng-Thái-Hậu (tức là đức Tiên-Cung) hiện ở tại Đại Nội.
Đức Đồng Khánh và bà Phụ-Thiên-Thuần-Hoàng-Hậu đều thờ tại Án-tả tam tại Thế-Miếu, và Án-Tả tam điện Phụng-Tiên.
Hệ Lục chánh chỉ có một phòng là phòng An-hóa Quận-Vương, trong phòng chỉ có quan Vĩnh-Thùy, Tả-tôn-khanh phủ Tôn-Nhơn và người con trai tập tước Hương- công.
Đến hệ Lục chánh thì vừa hết các Hệ chánh. Hệ ngũ chánh vô tự, thành thử chỉ còn năm hệ chánh mà thôi. Nhân số tổng cộng được 2.522 người đàn ông và 2.400 đàn bà.
Muốn biết về thế thứ trong các hệ chánh chỉ xem bản đề ở sau này thì đủ rõ.
THỂ THỨ ĐỒ BIÊU
1. – Đức THẾ-TỔ-CAO HOÀNG-ĐẾ (GIA-LONG) (Hệ Nhứt Chánh)
↡
2. – Đức THÁNH TỒ NHƠN HOÀNG-ĐẾ (MINH-MẠNG) (Hệ Nhì Chánh)
↡
3. — Đức HIẾN-TỔ-CHƯƠNG HOÀNG-ĐẾ (THIỆU-TRỊ) (Hệ Ba Chánh)
↡
↡
4- ĐỨC DỰC-TÔN-ANH HOÀNG ĐỂ
(TỰ -ĐỨC)
Hệ Tứ Chánh)
|
↡
Thoại-Thái-Vương
↡
↡
↡
|
↡
Kiên-Thái-Vương
|
|
↡
6- HIỆP HOÀ (PHẾ-ĐẾ)
|
|
5-Thoại-Quốc-Công (DỤC-ĐỨC)
(Con nuôi đức Tự-Đức)
↡
|
8. - CẢNH TÔN-THUẦN HOÀNG-ĐẾ. (ĐỒNG KHÁNH) (Con nuôi đức Tự Đức)
(Hệ lục Chánh)
↡
|
7- GIẢN TÔN-NGHỊ HOÀNG ĐẾ (KIẾN-PHƯỚC) (Con nuôi đức Tự-Đức )
(Hệ Ngũ Chánh)
|
8- HÀM NGHI (PHE-DE)
|
|
10- THÀNH THÁI (PHÊ-ĐẾ) (Hoài-Trạch-Công)
|
12. - HOẰNG-TÔN-TUYÊN HOÀNG ĐẾ (KHẢI ĐỊNH)
|
|
|
|
11. – DUY TÂN (PHẾ. ĐẾ)
|
13. — BẢO-ĐẠI HOÀNG-ĐẾ
|
|
|
Cách tổ chức trong Hoàng Tộc
Trong Hoàng-Tộc có 9 Hệ Tôn-Thất và 6 Hệ Chánh. Nhân số tổng cộng được 10.800 người (theo bản kê tháng Février 1942),
Đứng đầu mỗi Hệ có một viên Tư-Giáo.
Về các Hệ Tôn-Thất, hệ tư, hệ sáu không có, về các Hệ Chánh thì hệ Ngũ chánh vô tụ, hệ Lục chánh nhân số quả ít, nên chỉ đặt 11 viên Tư-Giáo mà thôi. Tư-Giáo hệ nhứt, hệ nhì, hệ ba, hệ năm, hệ bảy, hệ tám, hệ chín, hệ nhứt chánh, hệ nhì chánh, hệ ba chánh và hệ tứ chánh.
Tư-Giáo là một chức thuộc quan, có cái trọng trách nối liền người trong Hệ với Chánh-Phủ. Họ cũng như Lý trưởng ở các làng, bảo vệ quyền lợi cho người trong Hệ, giữ gìn trật tự, coi về việc sanh tử giá thú và căn cước tánh hạnh của những người trong Hoàng Tộc.
Dưới quyền các viên Tư-Giáo có các viên Phòng-trưởng, một công chức không lương, coi về việc khai báo trong Phòng.
Ngoài Phòng-trưởng và Tư-Giáo lại có những viên Chủ tự hay Tôn-tước, giữ việc kỵ lạp cúng tế trong Phòng và để phải đi lạy các nơi Tôn-Lăng-Miếu-Điện.
Các Hệ và các hệ chánh đều thuộc dưới quyền Tôn- Nhơn Phủ. Ngày trước cầm đầu Phủ Tôn-Nhơn là một vị Hoàng-Thân nhưng gần đây thì Phủ Tôn Nhơn do một quan Thượng thơ kiêm nhiếp. Ấn quan thì có tả, hữu lôn khanh dưới nữa thì đến thuộc quan và viên dịch. Quan viên ở Phủ Tôn Nhơn đều lựa những người trong Hoàng Tộc. Quan Kiêm-Nhiếp phủ vụ quản có các công việc thuộc về các người trong Hoàng-Tộc từ những việc về lễ nghi đến hành chánh và tư-pháp.
Các Tôn-Lăng-Miếu-Diện đều do các quan viên ngạch Kiểm-Nghi trong coi, các viên quan ấy cũng đều là người trong Hoàng tộc vừa thuộc quyền bộ Lễ Nghi vừa thuộc quyền Tôn-Nhơn-Phủ.
CÁC VỊ KIÊM NHIẾP TỪ NGÀY TÔN-NHƠN PHỦ THÀNH LẬP
Tả Tôn Chánh
I.. L. A. A. les Princes:
Trường-Khánh Công Septembre 1836 - Janvier 1840
(lúc Đức Thiệu-Trị còn Hoàng tử)
Thọ-Xuân Vương Janvier 1840 - Octobre 1885
Hữu Tôn Chảnh
S. A. le Prince:
Hoài-Đức-Quận-Vương Octobre 1885 - Février 1889
Tả Tôn Chánh
S. A. le Prince:
Tuy - Lý - Vương Février 1889 - Novembre 1897
Tả Tôn Nhơn
S. A. le Prince :
An-Xuyên Vương Novembre 1897 - Août 1899
Hữu Tôn Nhơn
S. A. le Prince :
Hoằng - Trị - Vương Août 1899 - Août 1902
Tả Tôn Chánh
S. A. le Prince :
An-Thanh-Vương Septembre 1902 Février 1920
Kiêm-Nhiếp Tôn-Nhơn Phủ Vụ Đại Thần
L L.E.E.
Ứng-Huy Février 1920 - Février 1922
Tôn-that-Tram Février 1922 - Février 1928
Tôn-thất-Đàng Février 1928 - Janvier 1929
Bửu-Thạch Janvier 1929 - Février 1933
Ung-Bàng Février 1933 - Janvier 1935
Ung-Trình Janvier 1935 - Février 1940
Quyền Nhiếp Tôn-Nhơn Phủ Vụ
S. E
Bửu - Thảo Février 1910 - Mai 1942
Kiêm-Nhiếp Tôn-Nhơn Phủ Vụ Đại Thần
S. E.
Tôn thất-Côn Mai 1942 -
THỂ THỬ ẤM TẬP TRONG HOÀNG TỘC
Con cháu các ngài Hoàng tử, mỗi đời có một người được ẩm-tập theo các tước dưới này:
Các ngài Thân-Vương và Quận Vương:
Con tập tước Quận-Công 2-1M
Cháu tập tước Hương-Công 3-1M
Thể thứ ba tập tước Kỳ ngoại hầu 4-1M
Thế thứ tư tập tước Tá-quốc-Khanh 5-1M
Thể thử năm tập tước Phụng-quốc-ủy 6-1M
Các ngài Thân - Công:
Con tập tước Huyện - công 2-2M
Cháu tập tước Huyện-hầu 3-2M
Thể thứ ba tập tước Trợ-quốc-khanh 4-2M
Thể thứ tư tập tước Trợ quốc ủy 5-2M
Thế thử năm tập tước Phụng-quốc-lang 6-2M
Các ngài Quốc công:
Con tập tước Hương-hầu 3-2M
Cháu tập tước Trợ-quốc-khanh 4-2M
Thế thứ ba tập tước Tá quốc ủy 5.2M
Thể thứ tư tập tước Tả quốc lang 6-2M
Các ngài Quận Công:
Con tập tước Kỳ-ngoại-hầu 4-1M
Cháu tập tước Tá quốc-khanh 5-1M
Thể thứ ba tập tước Trợ-quốc-lang 6-1M
Thể là con cháu các ngài Thân vương, Quận vương và Thân-công được năm đời ấm tập, con cháu các ngài Quốc- công được bốn đời, còn con cháu các ngài Quận công chỉ có ba đời ấm tập.
MỤC LỤC
TRANG
Nguyên quán ……………………………………………………………………………………3
Cách lựa tên của các vị Chúa và các vị Vua .……………………………… ………………3
Cách đặt tên và chữ lót trong các hệ Chánh..……………………………………… ………4
HỆ VÀ PHÒNG
Các Hệ Tôn Thất
Hệ Nhứt.……………………………………………………………………………………….11
Hệ Nhì.…………………………………………………………………………………………11
(Họ Nguyễn-Thuận và Nguyễn Hựu)
Hệ Ba ……………………………………………………………………………………….….12
(Họ Nguyễn-Hữu và Nguyễn Cửu)
Hệ Tư…………………………………………………………………………………….……..13
Hệ Năm…………………………………………………………………………………………14
Hệ Sáu…………………………………………………………………………………………..15
Hệ Bảy…………………………………………………………………………………………..15
Hệ Tám………………………………………………………………………………………….17
Hệ Chin………………………………………………………………………………………….17
Các Hệ Chánh
Hệ Nhứt Chánh………………………………………………………………………………….19
Hệ Nhì Chánh …………………………………………………………………………………..20
Hệ Ba Chánh…………………………………………………………………………………….25
Hệ Tứ Chánh…………………………………………………………………………………….25
Hệ Ngũ Chánh…………………………………………………………………………………..27
Hệ Lục Chánh……………………………………………………………………………………28
Thế Thứ Đồ Biểu ……………………………………………………………………………….29
Cách tổ chức trong Hoàng tộc………………………………………………………………...30
Các vị kiêm-nhiếp từ ngày Tôn-Nhơn Phủ thành lập……………………………………….31
Thế thứ ẩm tập trong Hoàng tộc………………………………………………………………32